Viêm gan vi rút b mạn là gì? Các công bố khoa học về Viêm gan vi rút b mạn

Viêm gan vi rút B mãn là một bệnh viêm gan do virus vi rút B (HBV) gây ra. Viêm gan B mãn có thể là một bệnh trầm trọng và kéo dài, dẫn đến viêm gan mãn tính, x...

Viêm gan vi rút B mãn là một bệnh viêm gan do virus vi rút B (HBV) gây ra. Viêm gan B mãn có thể là một bệnh trầm trọng và kéo dài, dẫn đến viêm gan mãn tính, xơ gan và ung thư gan. Bệnh được truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc với máu, chất nhầy hoặc dịch sinh dục của người bị nhiễm virus HBV, chẳng hạn như quan hệ tình dục không an toàn, tiêm chích ma túy chung, hoặc chuyển máu không kiểm dịch. Triệu chứng của viêm gan B mãn có thể gồm mệt mỏi, giảm khả năng lao động, sự không thoải mái trong vùng bụng, buồn nôn, nôn mửa, mệt mỏi hơn bình thường, và màu da và màu niêm mạc của mắt và da trở thành vàng (bệnh vàng da).
Viêm gan vi rút B mãn (HBV) là một loại viêm gan mãn tính, do vi rút gan B gây ra. HBV là một vi rút lây qua tiếp xúc với máu, dịch cơ thể hoặc chất nhầy của người bị nhiễm HBV. Các hình thức lây truyền chính của HBV bao gồm:

1. Quan hệ tình dục không an toàn: Một trong những phương thức chính để lây nhiễm HBV là thông qua quan hệ tình dục không an toàn, đặc biệt là khi có tiếp xúc với máu, chất nhầy hoặc dịch vi rút trong tình dục.

2. Tiếp xúc với máu nhiễm HBV: Tiếp xúc với máu nhiễm vi rút, như thông qua chia sẻ kim tiêm hoặc các dụng cụ tiêm chích, là một nguy cơ cao để lây nhiễm HBV. Điều này bao gồm cả việc sử dụng chung các dụng cụ cạo râu, đồ điều trị cá nhân và các dụng cụ làm đẹp không được vệ sinh đúng cách.

3. Chuyển máu không kiểm dịch: Trước khi quy trình kiểm dịch hiện đại được áp dụng rộng rãi, làn da dữ dội từ việc tiêm chủng, chuyển máu hoặc phẫu thuật có thể dẫn đến viêm gan B mãn.

Một số triệu chứng phổ biến của viêm gan B mãn bao gồm:
- Mệt mỏi và suy giảm sức khỏe chung
- Giảm khả năng lao động và sự không thoải mái trong vùng bụng
- Buồn nôn, nôn mửa
- Cảm giác mệt mỏi hơn so với bình thường
- Da và niêm mạc mắt trở thành màu vàng (bệnh vàng da)

Nếu không được điều trị, viêm gan B mãn có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho gan, bao gồm sẹo gan (xơ gan) và ung thư gan. Tuy nhiên, viêm gan B mãn có thể điều trị và quản lý thông qua các biện pháp như tiêm vắc-xin, thuốc kháng virus và chăm sóc cơ bản. Điều quan trọng là kiên nhẫn và tuân thủ điều trị dài hạn để kiểm soát viêm gan và ngăn chặn các biến chứng tiềm ẩn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viêm gan vi rút b mạn":

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠNTIẾN TRIỂN UNG THƯ GAN NGUYÊN PHÁT TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 33 - Trang 12-16 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư gan nguyên phát (HCC) ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn nhận được điều trị thuốc kháng vi rút. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 39 bệnh nhân xuất hiện HCC trong quá trình điều trị thuốc kháng vi rúttại khoa khám bệnh Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung Ương từ 01/2013-12/2019. Kết quả: 74,4% bệnh nhân nam. Độ tuổi trung bình là 58,0±10,0.Chủ yếu các bệnh nhân sống ở vùng nông thôn (66,7%). Bệnh lý nền thường gặp là đái tháo đường (10,3%). 59% bệnh nhân có sử dụng nhiều rượu.Hầu hết các bệnh nhân được điều trị bằng thuốc TDF (71,8%).Phần lớn các bệnh nhân khi bắt đầu điều trị thuốc kháng vi rút khi đã có dấu hiệu xơ gan (82,0%) trong đó có 33,3% có dấu hiệu xơ gan mất bù. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là mệt mỏi và chán ăn (82,1%). Các bệnh nhân có xét nghiệm tiểu cầu thấp hơn so với giá trị bình thường (131,1±85,5). Chỉ số xơ hóa gan trên Fibroscan cao (26,7±22,9). Giá trị thang điểm dự đoán HCC: CU- HCC ở mức nguy cơ cao (16,8±15,1). Kết luận: Các bệnh nhân xuất hiện HCC trong quá trình điều trị thuốc kháng vi rút có đặc điểm: tuổi cao, giới nam, sống ở nông thôn, có thói quen sử dụng rượu, điều trị thuốc kháng vi rút muộn khi đã có xơ gan và xơ gan mất bù. Cận lâm sàng liên quan chủ yếu đến biểu hiện của xơ gan.
#Viêm gan vi rút B mạn tính #ung thư gan nguyên phát
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA PHÁC ĐỒ SOFOSBUVIR/VELPATASVIR/RIBAVIRIN TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM GAN C MẠN CÓ XƠ GAN TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG (01/2020 – 6/2022)
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 41 - Trang 21-28 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị của bệnh nhân viêm gan C mãn tính có xơ gan điều trị bằng phác đồ Sofosbuvir/Velpatasvir phối hợp Ribavirin và các tác dụng không mong muốn của phác đồ này. Đối tượng và Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi dọc 12 tuần sau khi kết thúc điều trị. 48 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm gan C mạn tính theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị viêm gan vi rút C năm 2016 của Bộ Y tế và theo Quyết định 2065/QĐ-BYT ban hành cập nhật mới về chẩn đoán và điều trị viêm gan vi rút C năm 2021. Các bệnh nhân được điều trị phác đồ Sofosbuvir/ Velpatasvir và Ribavirin trong 12 hoặc 24 tuần và theo dõi 6 tháng sau khi bắt đầu điều trị. Kết quả: Có 97,92% bệnh nhân viêm gan C mạn tính có xơ gan đạt đáp ứng vi rút bền vững SVR12, chỉ có 1 bệnh nhân (2,08%) không đạt SVR12. Giá trị trung vị chỉ số Fibroscan trước điều trị là 33,1 kPa (IQR 14,3 – 75), sau khi kết thúc điều trị 12 tuần giảm còn 20,2 kPa (IQR 6,1 – 75). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Điểm APRI tại các thời điểm T0, T4, T12 và T24 lần lượt là 1,77; 0,56; 0,45 và 0,54. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Một số bất thường trên xét nghiệm xuất hiện sau điều trị nhưng không có bệnh nhân nào phải ngừng điều trị vì bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào. Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phác đồ phối hợp thuốc đường uống Sofusbuvir/Velpatasvir và Ribavirin có hiệu quả và an toàn trong điều trị bệnh nhân viêm gan vi rút C mạn tính có xơ gan
#Viêm gan C mạn tính #Xơ gan #Đáp ứng vi rút bền vững SVR12 #Sofosbuvir/Velpatasvir và Ribavirin
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ THUỐC KHÁNG VI RÚT TRỰC TIẾP TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM GAN C MẠN
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 33 - Trang 7-11 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm và hiệu quả điều trị thuốc kháng vi rút trực tiếp bệnh nhân viêm gan C mạn. Phương pháp: Mô tả 67 bệnh nhân nhiễm viêm gan siêu vi C mạn khám và điều trị tại Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện đa khoa Nghệ An từ 01/2018 - 09/2020. Thiết kế nghiên cứu: Can thiệp không đối chứng kết hợp tiến cứu và hồi cứu. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân có enzyme ALT, AST, GGT trong giới hạn bình thường: 26,9%, 26,9% và 28,3%. Kiểu genotype 1 chiếm ưu thế với 61,2%, kế đến là genotype 6 chiếm tỷ lệ 23,9%, genotype 2: 13,4% và một trường hợp mang genotype 3 (1,5%). Tất cả bệnh nhân đều có HCV RNA dưới ngưỡng phát hiện sau 4 tuần điều trị, đạt tỷ lệ RVR 100%. Tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng siêu vi bền vững sau ngưng điều trị 12 tuần: 98,5%. Đáp ứng siêu vi không khác biệt giữa các genotype và phác đồ điều trị. Kết luận: Tỉ lệ RVR: 100%. Tỷ lệ SVR: 98,5%. Đáp ứng siêu vi bền vững trong nghiên cứu không có sự khác biệt giữa các genotype và phác đồ điều trị.
#DAA #viêm gan C #RVR #viêm gan vi rút C mạn
NGHIÊN CỨU CÁC DẤU ẤN HUYẾT THANH NHIỄM HBV, MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ HBsAg VÀ TẢI LƯỢNG VI RÚT Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MẠN CHƯA ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2021-2022
  Đặt vấn đề: Viêm gan B mạn là nguyên nhân hàng đầu của bệnh gan, các dấu ấn huyết thanh đã được đánh giá về sự liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh và trong một số nghiên cứu gần đây cho thấy định lượng HBsAg có tiềm năng ứng dụng lâm sàng trong quản lý và theo dõi điều trị đối với bệnh nhân viêm gan B mạn. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ các dấu ấn huyết thanh nhiễm HBV, xác định mối tương quan giữa nồng độ HBsAg và tải lượng HBV DNA huyết thanh ở bệnh nhân viêm gan B mạn chưa điều trị tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2021-2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 95 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm gan vi rút B mạn chưa điều trị đến khám tại Phòng khám gan, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ từ tháng 4/2021-4/2022. Bệnh nhân được tiến hành xét nghiệm định tính HBeAg, định lượng HBsAg, đo tải lượng vi rút HBV DNA, thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: Trong số 95 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân có HBeAg+) là 27,4%. Nồng độ HBsAg trung bình trên 95 mẫu nghiên cứu là 3,6±0,94 log10 IU/mL, tải lượng vi rút HBV DNA là 4,83±1,86 log10 IU/mL. Có mối tương quan trung bình giữa nồng độ HBsAg và HBV DNA trên 95 mẫu nghiên cứu với r=0,57(p<0,001). Kết luận: nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ HBeAg(+) thấp hơn HBeAg(-), nồng độ trung bình HBsAg và HBV DNA ở nhóm bệnh viêm gan B mạn có HbeAg(+) cao hơn so với nhóm HBeAg(-), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, trong nghiên cứu này cho thấy mối tương quan trung bình giữa nồng độ HBsAg và HBV DNA.  
#Viêm gan B mạn #HBV DNA #định lượng HBsAg #HBeAg
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, KIỂU GEN VI RÚT CỦA NGƯỜI BỆNH VIÊM GAN VI RÚT C MẠN TÍNH NĂM 2021-2024
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 543 Số 3 - Trang - 2024
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kiểu gen đối tượng người bệnh viêm gan vi rút C. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp hồi cứu và tiến cứu trên 40 đối tượng người bệnh viêm gan vi rút C mạn tính, đa trung tâm tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 1/2021-3/2024. Kết quả: Tuổi trung bình người bệnh đạt 57,5 ± 13,3 tuổi, trong đó nam giới chiếm đa số (77,5%). 80% người đi khám vì mệt mỏi. Ung thư, tăng huyết áp là hai bệnh kèm theo thường gặp nhất (30% và 17,5%). Kết quả men gan ALT 162,0 IQR (81,0-852,0) U/l, AST 105,0 IQR (47,0-432,0) U/l, GGT 193,0 IQR (120,0-373,0) U/l. Chỉ số Billirubin TP 18,0 IQR (11,0-96,0) µmol/l, billirubin TT 6,0 IQR (4,0-63,0) µmol/l. Tải lượng vi rút viêm gan C 1.150.000 copies/ml, IQR (221.000-7.342.500) copies/ml. Đa số kiểu gen vi rút viêm gan C là kiểu gen 6 (47,1%), kiểu gen 1 (35,3%). Kết luận: Người bệnh chủ yếu là nam giới, trong đó đa số trong nhóm độ tuổi từ 46-75 tuổi. Các chỉ số enzym gan (AST, ALT, GGT) và chỉ số Billirubin TP/TT đều vượt quá ngưỡng bình thường. Kiểu gen Vi rút viêm gan C thường gặp là gen 1 và gen 6.
#: Viêm gan #Vi rút viêm gan C #mạn tính #kiểu gen.
NGHIÊN CỨU MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TẢI LƯỢNG HBV DNA VÀ HOẠT ĐỘ ENZYM ALT Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Khảo sát tải lượng HBV–DNA, hoạt độ ALT huyết thanh và bước đầu đánh giá mối tương quan giữa tải lượng HBV DNA với hoạt độ enzym ALT ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính (VGBMT). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu trên 39 bệnh nhân viêm gan B mạn tính điều trị tại khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Quân y 103 từ 03/2018 đến 04/2019. Kết quả: Tải lượng HBV DNA trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 1,2 x 108 ± 0,7 x 107 copies/mL. Hoạt độ ALT huyết thanh trung bình của các bệnh nhân nghiên cứu là 561,94 ± 207,19 U/L. Chưa có mối tương quan có ý nghĩa thống kê nào giữa giữa tải lượng HBV DNA huyết thanh với hoạt độ ALT huyết thanh ở các bệnh nhân VGBMT nói chung (r= -0,12; p= 0,46) cũng như từng nhóm bệnh nhân nói riêng. Kết luận: Tải lượng HBV DNA trung bình là 1,2 x 108 ± 0,7 x 107 copies/mL. Hoạt độ ALT huyết thanh trung bình là 561,94 ± 207,19 U/L. Không có mối tương quan có ý nghĩa thống kê nào giữa giữa tải lượng HBV DNA huyết thanh với hoạt độ ALT huyết thanh ở các bệnh nhân VGBMT.
#Viêm gan vi rút B #HBV-DNA #alanine aminotransferase
DẤU ẤN HBcrAg HUYẾT THANH TRONG DIỄN BIẾN TỰ NHIÊN Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá nồng độ HBcrAg huyết thanh và tương quan với các dấu ấn vi rút viêm gan B trong các giai đoạn tự nhiên của viêm gan vi rút B mạn. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích tiến cứu 127 bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn chưa điều trị được theo dõi tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Nồng độ HBcrAg ở các giai đoạn nhiễm trùng mạn HBeAg dương tính (EPCI), viêm gan mạn HBeAg dương tính (EPCH), nhiễm trùng mạn HBeAg âm tính (ENCI), viêm gan mạn HBeAg âm tính (ENCH), thanh thải HBsAg (SC) lần lượt là 6,84±0,45 logU/ml; 6,7±0,59 logU/ml; 3,15±0,86 logU/ml; 4,75±1,57 logU/ml; 2,43±0,44 logU/ml. HBcrAg tương quan với HBV-DNA (r=0,785; p=0,000), mạnh nhất ở giai đoạn EPCI (r=0,988). HBcrAg tương quan với HBsAg ở mức độ trung bình (r=0,653; p=0,00); tương quan với AST, ALT trong giai đoạn ENCH với hệ số lần lượt r=0,527, p=0,001 và r=0,335, p=0,049. Ngoài ra, HBcrAg có thể phát hiện tới 75% trong nhóm thanh thải HBsAg. Kết luận: Nồng độ HBcrAg phân bố khác nhau trong suốt các giai đoạn diễn biến tự nhiên của viêm gan vi rút B mạn. Nồng độ HBcrAg có mối tương quan mạnh với tải lượng HBV-DNA trong tất cả các giai đoạn, có thể phản ánh sự nhân lên của vi rút.
#Kháng nguyên liên quan đến lõi của vi rút viêm gan B (HBcrAg) #viêm gan vi rút B mạn #diễn biến tự nhiên
THAY ĐỔI GIÁ TRỊ qHBsAg Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN KHI ĐIỀU TRỊ BẰNG TENOFOVIR DISOPROXIL FUMARATE HOẶC TENOFOVIR ALAFENAMIDE
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 503 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi qHBsAg ở bệnh nhân (BN) HBV mạn điều trị tenofovir disoproxil fumarate (TDF) hoặc tenofovir alafenamide (TAF). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên những BN HBV mạn điều trị ngoại trú với TDF 300mg hoặc TAF 25mg tại phòng khám Viêm gan ,bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh từ tháng 01/2017 đến 12/2020. Tiến hành đánh giá sự thay đổi qHBsAg khi điều trị với TDF hoặc TAF. Kết quả: Nghiên cứu có 250 BN, trong đó 160 BN (64%) được điều trị với TDF và 90 BN (36%) được điều trị TAF. Thời gian điều trị trung bình của nhóm TDF là 4,1 năm và ở nhóm TAF là 2,5 năm. Giá trị qHBsAg trung bình tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu của nhóm BN điều trị TDF là 3,0 ± 0,8 (log10 UI/ml) cao hơn có ý nghĩa so với nhóm BN đang điều trị TAF (2,7 ± 0,9 với p = 0,02). Trong nhóm điều trị với TDF, giá trị qHBsAg trung bình sau 12 tuần giảm không có ý nghĩa thống kê so với thời điểm bắt (p = 0,2) nhưng giảm có ý nghĩa tại thời điểm 24 tuần so với ban đầu (p = 0,02). Ở nhóm điều trị với TAF, giá trị qHBsAg giảm không có ý nghĩa ở thời điểm sau 12 tuần (p = 0,8) và 24 tuần (p=0,4). Kết luận: Nghiên cứu cho thấy giá trị qHBsAg giảm có ý nghĩa tại thời điểm 24 tuần trong quá trình điều trị TDF, tuy nhiên giá trị qHBsAg giảm không có ý nghĩa trong quá trình điều trị TAF thời gian ngắn. Cần có nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn, đa trung tâm và thời gian theo dõi dài hơn đến đánh giá vai trò của thuốc tới sự thay đổi qHBsAg.
#qHBsAg #Viêm gan B mạn #TDF #TAF
KHẢO SÁT SỰ THAY ĐỔI CHỈ SỐ XƠ HOÁ GAN APRI SAU ĐẠT ĐÁP ỨNG VI RÚT BỀN VỮNG Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT C MẠN ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC KHÁNG VI RÚT TRỰC TIẾP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 503 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Khảo sát hiệu quả cải thiện mức độ xơ hoá gan dựa vào chỉ số AST/số lượng tiểu cầu (APRI) sau khi đạt đáp ứng vi rút bền vững ở bệnh nhân viêm gan vi rút C mạn (HCV) được điều trị bằng kháng vi rút trực tiếp (DAA). Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang hồi cứu trên  hồ sơ bệnh án của bệnh nhân (BN) viêm gan vi rút C mạn, đến khám và điều trị ngoại trú tại Phòng khám viêm gan - Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM, từ tháng 01/2018 đến 12/2019. BN được chỉ định điều trị bằng các phác đồ DAA trong 3 tháng, thu thập các số liệu lâm sàng và cận lâm sàng tại thời điểm trước điều trị, sau khi kết thúc điều trị 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng. Đánh giá mức độ xơ hoá gan dựa trên APRI. Kết quả: Trong 184 BN đủ tiêu chuẩn, có 113 (61,4%) là nữ. Tuổi trung bình là 57,1 ± 13,4, Có 96/184 (52,2%) BN chưa có xơ gan. Trên nhóm BN chưa có xơ gan, APRI thay đổi có ý nghĩa thống kê tại thời điểm 6 tháng sau khi kết thúc điều trị so với ban đầu (0,71; 0,32; p = 0,012). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh ở thời điểm 12 tháng (0,32) và 6 tháng (0,31) sau khi kết thúc điều trị (p = 0,385). Trên nhóm BN xơ gan, APRI giảm có ý nghĩa thống kê ở tất cả các khoảng giá trị ở thời điểm 6 tháng sau khi kết thúc điều trị so với giá trị ban đầu (1,13; 0,41; p < 0,001). Kết luận: APRI thay đổi có ý nghĩa thống kê ở thời điểm 6 tháng sau khi kết thúc điều trị bằng DAA. Do đó, BN HCV nên được điều trị DAA sớm để hạn chế diễn tiến của bệnh gan mạn tính.
#Xơ gan #APRI #viêm gan C mạn
KHẢO SÁT TÁC ĐỘNG CỦA TENOFOVIR DISOPROXIL FUMARATE LÊN CHỨC NĂNG THẬN Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Khảo sát tác động của tenofovir disoproxil fumarate (TDF) lên chức năng thận ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành trên 60 bệnh nhân viêm gan B mạn điều trị ngoại trú với TDF tại Bệnh viện Đại Học Y Dược TP HCM từ tháng 05/2017 đến tháng 10/2020. Kết quả: Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 42,10 ± 13,30; Tỷ lệ nam giới 39/60 (65,0%). Mức creatinine trung bình đã tăng đáng kể ở tuần thứ 24 và 48 (p < 0,01). Tương tự, độ lọc cầu thận ước tính (estimated Glomerular Filtration Rate – eGFR) giảm có ý nghĩa ở tuần thứ 24 và 48 (p < 0,05). Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy chức năng thận giảm so với ban đầu ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn điều trị TDF, cho thấy chức năng thận cần được theo dõi thường xuyên ở những bệnh nhân đang điều trị với TDF.
#TDF #chức năng thận #viêm gan vi rút B mạn.
Tổng số: 23   
  • 1
  • 2
  • 3