Viêm gan vi rút b mạn là gì? Các công bố khoa học về Viêm gan vi rút b mạn

Viêm gan vi rút B mãn là một bệnh viêm gan do virus vi rút B (HBV) gây ra. Viêm gan B mãn có thể là một bệnh trầm trọng và kéo dài, dẫn đến viêm gan mãn tính, x...

Viêm gan vi rút B mãn là một bệnh viêm gan do virus vi rút B (HBV) gây ra. Viêm gan B mãn có thể là một bệnh trầm trọng và kéo dài, dẫn đến viêm gan mãn tính, xơ gan và ung thư gan. Bệnh được truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc với máu, chất nhầy hoặc dịch sinh dục của người bị nhiễm virus HBV, chẳng hạn như quan hệ tình dục không an toàn, tiêm chích ma túy chung, hoặc chuyển máu không kiểm dịch. Triệu chứng của viêm gan B mãn có thể gồm mệt mỏi, giảm khả năng lao động, sự không thoải mái trong vùng bụng, buồn nôn, nôn mửa, mệt mỏi hơn bình thường, và màu da và màu niêm mạc của mắt và da trở thành vàng (bệnh vàng da).
Viêm gan vi rút B mãn (HBV) là một loại viêm gan mãn tính, do vi rút gan B gây ra. HBV là một vi rút lây qua tiếp xúc với máu, dịch cơ thể hoặc chất nhầy của người bị nhiễm HBV. Các hình thức lây truyền chính của HBV bao gồm:

1. Quan hệ tình dục không an toàn: Một trong những phương thức chính để lây nhiễm HBV là thông qua quan hệ tình dục không an toàn, đặc biệt là khi có tiếp xúc với máu, chất nhầy hoặc dịch vi rút trong tình dục.

2. Tiếp xúc với máu nhiễm HBV: Tiếp xúc với máu nhiễm vi rút, như thông qua chia sẻ kim tiêm hoặc các dụng cụ tiêm chích, là một nguy cơ cao để lây nhiễm HBV. Điều này bao gồm cả việc sử dụng chung các dụng cụ cạo râu, đồ điều trị cá nhân và các dụng cụ làm đẹp không được vệ sinh đúng cách.

3. Chuyển máu không kiểm dịch: Trước khi quy trình kiểm dịch hiện đại được áp dụng rộng rãi, làn da dữ dội từ việc tiêm chủng, chuyển máu hoặc phẫu thuật có thể dẫn đến viêm gan B mãn.

Một số triệu chứng phổ biến của viêm gan B mãn bao gồm:
- Mệt mỏi và suy giảm sức khỏe chung
- Giảm khả năng lao động và sự không thoải mái trong vùng bụng
- Buồn nôn, nôn mửa
- Cảm giác mệt mỏi hơn so với bình thường
- Da và niêm mạc mắt trở thành màu vàng (bệnh vàng da)

Nếu không được điều trị, viêm gan B mãn có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho gan, bao gồm sẹo gan (xơ gan) và ung thư gan. Tuy nhiên, viêm gan B mãn có thể điều trị và quản lý thông qua các biện pháp như tiêm vắc-xin, thuốc kháng virus và chăm sóc cơ bản. Điều quan trọng là kiên nhẫn và tuân thủ điều trị dài hạn để kiểm soát viêm gan và ngăn chặn các biến chứng tiềm ẩn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viêm gan vi rút b mạn":

Kết quả lâm sàng của viêm gan B mạn tính HBeAg âm tính liên quan đến phản ứng vi rút đối với lamivudine Dịch bởi AI
Hepatology - Tập 40 Số 4 - Trang 883-891 - 2004

Ảnh hưởng của việc điều trị bằng lamivudine đến kết quả của bệnh nhân viêm gan mạn tính âm tính với kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBeAg) còn chưa rõ ràng. Trong một nghiên cứu đa trung tâm hồi cứu, chúng tôi đã phân tích các sự kiện vi rút được ghi nhận trong quá trình điều trị lamivudine ở những bệnh nhân viêm gan mạn tính HBeAg âm tính và đánh giá mối tương quan giữa phản ứng vi rút và các kết quả lâm sàng. Trong số 656 bệnh nhân (tuổi trung bình 49,1 năm) được đưa vào cơ sở dữ liệu, 54% mắc viêm gan mạn tính, 30% có xơ gan Child-Turcotte-Pugh (CTP) loại A, và 16% có xơ gan CTP loại B/C. Trong quá trình điều trị (thời gian trung bình 22 tháng, khoảng từ 1-66 tháng), phản ứng vi rút đạt được ở 616 bệnh nhân (93,9%). Tỷ lệ duy trì phản ứng vi rút là 39% sau 4 năm. Trong quá trình theo dõi, 47 (7,2%) bệnh nhân đã trải qua ghép gan, bệnh gan xấu đi ở 31 (4,7%), ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) phát triển ở 31 (4,7%), và 24 bệnh nhân (3,6%) tử vong do các nguyên nhân liên quan đến gan. Những bệnh nhân có xơ gan và duy trì phản ứng vi rút ít có khả năng phát triển HCC so với những bệnh nhân có sự bùng phát virus (P < .001) và sự xấu đi của bệnh (P < .001). Tỷ lệ sống sót tốt hơn ở những bệnh nhân CTP loại A có xơ gan và duy trì phản ứng vi rút (P = .01 theo kiểm định hạng). Phân tích đa biến cho thấy sự hiện diện của xơ gan và bùng phát virus có liên quan độc lập đến tỷ lệ tử vong và sự phát triển của HCC. Kết luận, lamivudine rất hiệu quả trong việc giảm tải virus ở những bệnh nhân HBeAg âm tính. Sau 4 năm điều trị, 39% bệnh nhân duy trì phản ứng vi rút và sinh hóa. Mất phản ứng vi rút có thể dẫn đến sự xấu đi lâm sàng ở những bệnh nhân có xơ gan. (Hepatology 2004;40:883-891).

#lamivudine #viêm gan B #HBeAg âm tính #phản ứng vi rút #xơ gan #ung thư biểu mô tế bào gan #kết quả lâm sàng
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠNTIẾN TRIỂN UNG THƯ GAN NGUYÊN PHÁT TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 33 - Trang 12-16 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư gan nguyên phát (HCC) ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn nhận được điều trị thuốc kháng vi rút. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 39 bệnh nhân xuất hiện HCC trong quá trình điều trị thuốc kháng vi rúttại khoa khám bệnh Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung Ương từ 01/2013-12/2019. Kết quả: 74,4% bệnh nhân nam. Độ tuổi trung bình là 58,0±10,0.Chủ yếu các bệnh nhân sống ở vùng nông thôn (66,7%). Bệnh lý nền thường gặp là đái tháo đường (10,3%). 59% bệnh nhân có sử dụng nhiều rượu.Hầu hết các bệnh nhân được điều trị bằng thuốc TDF (71,8%).Phần lớn các bệnh nhân khi bắt đầu điều trị thuốc kháng vi rút khi đã có dấu hiệu xơ gan (82,0%) trong đó có 33,3% có dấu hiệu xơ gan mất bù. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là mệt mỏi và chán ăn (82,1%). Các bệnh nhân có xét nghiệm tiểu cầu thấp hơn so với giá trị bình thường (131,1±85,5). Chỉ số xơ hóa gan trên Fibroscan cao (26,7±22,9). Giá trị thang điểm dự đoán HCC: CU- HCC ở mức nguy cơ cao (16,8±15,1). Kết luận: Các bệnh nhân xuất hiện HCC trong quá trình điều trị thuốc kháng vi rút có đặc điểm: tuổi cao, giới nam, sống ở nông thôn, có thói quen sử dụng rượu, điều trị thuốc kháng vi rút muộn khi đã có xơ gan và xơ gan mất bù. Cận lâm sàng liên quan chủ yếu đến biểu hiện của xơ gan.
#Viêm gan vi rút B mạn tính #ung thư gan nguyên phát
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA PHÁC ĐỒ SOFOSBUVIR/VELPATASVIR/RIBAVIRIN TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM GAN C MẠN CÓ XƠ GAN TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG (01/2020 – 6/2022)
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 41 - Trang 21-28 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị của bệnh nhân viêm gan C mãn tính có xơ gan điều trị bằng phác đồ Sofosbuvir/Velpatasvir phối hợp Ribavirin và các tác dụng không mong muốn của phác đồ này. Đối tượng và Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi dọc 12 tuần sau khi kết thúc điều trị. 48 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm gan C mạn tính theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị viêm gan vi rút C năm 2016 của Bộ Y tế và theo Quyết định 2065/QĐ-BYT ban hành cập nhật mới về chẩn đoán và điều trị viêm gan vi rút C năm 2021. Các bệnh nhân được điều trị phác đồ Sofosbuvir/ Velpatasvir và Ribavirin trong 12 hoặc 24 tuần và theo dõi 6 tháng sau khi bắt đầu điều trị. Kết quả: Có 97,92% bệnh nhân viêm gan C mạn tính có xơ gan đạt đáp ứng vi rút bền vững SVR12, chỉ có 1 bệnh nhân (2,08%) không đạt SVR12. Giá trị trung vị chỉ số Fibroscan trước điều trị là 33,1 kPa (IQR 14,3 – 75), sau khi kết thúc điều trị 12 tuần giảm còn 20,2 kPa (IQR 6,1 – 75). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Điểm APRI tại các thời điểm T0, T4, T12 và T24 lần lượt là 1,77; 0,56; 0,45 và 0,54. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Một số bất thường trên xét nghiệm xuất hiện sau điều trị nhưng không có bệnh nhân nào phải ngừng điều trị vì bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào. Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phác đồ phối hợp thuốc đường uống Sofusbuvir/Velpatasvir và Ribavirin có hiệu quả và an toàn trong điều trị bệnh nhân viêm gan vi rút C mạn tính có xơ gan
#Viêm gan C mạn tính #Xơ gan #Đáp ứng vi rút bền vững SVR12 #Sofosbuvir/Velpatasvir và Ribavirin
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ THUỐC KHÁNG VI RÚT TRỰC TIẾP TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM GAN C MẠN
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 33 - Trang 7-11 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm và hiệu quả điều trị thuốc kháng vi rút trực tiếp bệnh nhân viêm gan C mạn. Phương pháp: Mô tả 67 bệnh nhân nhiễm viêm gan siêu vi C mạn khám và điều trị tại Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện đa khoa Nghệ An từ 01/2018 - 09/2020. Thiết kế nghiên cứu: Can thiệp không đối chứng kết hợp tiến cứu và hồi cứu. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân có enzyme ALT, AST, GGT trong giới hạn bình thường: 26,9%, 26,9% và 28,3%. Kiểu genotype 1 chiếm ưu thế với 61,2%, kế đến là genotype 6 chiếm tỷ lệ 23,9%, genotype 2: 13,4% và một trường hợp mang genotype 3 (1,5%). Tất cả bệnh nhân đều có HCV RNA dưới ngưỡng phát hiện sau 4 tuần điều trị, đạt tỷ lệ RVR 100%. Tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng siêu vi bền vững sau ngưng điều trị 12 tuần: 98,5%. Đáp ứng siêu vi không khác biệt giữa các genotype và phác đồ điều trị. Kết luận: Tỉ lệ RVR: 100%. Tỷ lệ SVR: 98,5%. Đáp ứng siêu vi bền vững trong nghiên cứu không có sự khác biệt giữa các genotype và phác đồ điều trị.
#DAA #viêm gan C #RVR #viêm gan vi rút C mạn
NGHIÊN CỨU CÁC DẤU ẤN HUYẾT THANH NHIỄM HBV, MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ HBsAg VÀ TẢI LƯỢNG VI RÚT Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MẠN CHƯA ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2021-2022
  Đặt vấn đề: Viêm gan B mạn là nguyên nhân hàng đầu của bệnh gan, các dấu ấn huyết thanh đã được đánh giá về sự liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh và trong một số nghiên cứu gần đây cho thấy định lượng HBsAg có tiềm năng ứng dụng lâm sàng trong quản lý và theo dõi điều trị đối với bệnh nhân viêm gan B mạn. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ các dấu ấn huyết thanh nhiễm HBV, xác định mối tương quan giữa nồng độ HBsAg và tải lượng HBV DNA huyết thanh ở bệnh nhân viêm gan B mạn chưa điều trị tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2021-2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 95 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm gan vi rút B mạn chưa điều trị đến khám tại Phòng khám gan, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ từ tháng 4/2021-4/2022. Bệnh nhân được tiến hành xét nghiệm định tính HBeAg, định lượng HBsAg, đo tải lượng vi rút HBV DNA, thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: Trong số 95 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân có HBeAg+) là 27,4%. Nồng độ HBsAg trung bình trên 95 mẫu nghiên cứu là 3,6±0,94 log10 IU/mL, tải lượng vi rút HBV DNA là 4,83±1,86 log10 IU/mL. Có mối tương quan trung bình giữa nồng độ HBsAg và HBV DNA trên 95 mẫu nghiên cứu với r=0,57(p<0,001). Kết luận: nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ HBeAg(+) thấp hơn HBeAg(-), nồng độ trung bình HBsAg và HBV DNA ở nhóm bệnh viêm gan B mạn có HbeAg(+) cao hơn so với nhóm HBeAg(-), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, trong nghiên cứu này cho thấy mối tương quan trung bình giữa nồng độ HBsAg và HBV DNA.  
#Viêm gan B mạn #HBV DNA #định lượng HBsAg #HBeAg
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG BỘ KÍT R&D RT-qPCR HBV MỘT BƯỚC ĐỊNH LƯỢNG PREGENOMIC RNA CỦA VI RÚT TRONG HUYẾT THANH BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá chất lượng bộ kit R&D RT-qPCR HBV một bước để định lượng pgRNA trong huyết thanh bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn tính. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Quy trình bao gồm việc đánh giá chất chỉ tiêu chất lượng như sau: ngưỡng phát hiện, ngưỡng định lượng, khoảng tuyến tính, độ chính xác, độ đặc hiệu, độ lặp lại và so sánh khả năng định lượng với phương pháp RT-qPCR hai bước định lượng HBV-pgRNA. Kết quả: Ngưỡng phát hiện của bộ kit là 70 copy/ml huyết thanh và ngưỡng định lượng là 140 copy/ml huyết thanh. Khoảng tuyến tính là 102 – 108 copy/ml với hệ số hồi quy là R2 = 0,996. Bộ kit RT-qPCR định lượng HBV pgRNA có độ chính xác cao (CV ≤ 0,03), độ lặp lại tốt (deltaCt <0,5) và độ đặc hiệu 100%. Hai bộ kit có sự tương quan cao trong định lượng HBV-pgRNA (Hệ số tuyến tính là R2=0,9885). Kết luận: bộ kit R&D RT-qPCR HBV một bước có thể sử dụng trong định lượng pgRNA huyết thanh và quản lý theo dõi bệnh nhân điều trị viêm gan B mạn tính.
#Pregenomic RNA #bộ kit R&D RT-qPCR HBV một bước #viêm gan B mạn tính
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, KIỂU GEN VI RÚT CỦA NGƯỜI BỆNH VIÊM GAN VI RÚT C MẠN TÍNH NĂM 2021-2024
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 543 Số 3 - Trang - 2024
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kiểu gen đối tượng người bệnh viêm gan vi rút C. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp hồi cứu và tiến cứu trên 40 đối tượng người bệnh viêm gan vi rút C mạn tính, đa trung tâm tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 1/2021-3/2024. Kết quả: Tuổi trung bình người bệnh đạt 57,5 ± 13,3 tuổi, trong đó nam giới chiếm đa số (77,5%). 80% người đi khám vì mệt mỏi. Ung thư, tăng huyết áp là hai bệnh kèm theo thường gặp nhất (30% và 17,5%). Kết quả men gan ALT 162,0 IQR (81,0-852,0) U/l, AST 105,0 IQR (47,0-432,0) U/l, GGT 193,0 IQR (120,0-373,0) U/l. Chỉ số Billirubin TP 18,0 IQR (11,0-96,0) µmol/l, billirubin TT 6,0 IQR (4,0-63,0) µmol/l. Tải lượng vi rút viêm gan C 1.150.000 copies/ml, IQR (221.000-7.342.500) copies/ml. Đa số kiểu gen vi rút viêm gan C là kiểu gen 6 (47,1%), kiểu gen 1 (35,3%). Kết luận: Người bệnh chủ yếu là nam giới, trong đó đa số trong nhóm độ tuổi từ 46-75 tuổi. Các chỉ số enzym gan (AST, ALT, GGT) và chỉ số Billirubin TP/TT đều vượt quá ngưỡng bình thường. Kiểu gen Vi rút viêm gan C thường gặp là gen 1 và gen 6.
#: Viêm gan #Vi rút viêm gan C #mạn tính #kiểu gen.
THAY ĐỔI GIÁ TRỊ qHBsAg Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN KHI ĐIỀU TRỊ BẰNG TENOFOVIR DISOPROXIL FUMARATE HOẶC TENOFOVIR ALAFENAMIDE
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 503 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi qHBsAg ở bệnh nhân (BN) HBV mạn điều trị tenofovir disoproxil fumarate (TDF) hoặc tenofovir alafenamide (TAF). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên những BN HBV mạn điều trị ngoại trú với TDF 300mg hoặc TAF 25mg tại phòng khám Viêm gan ,bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh từ tháng 01/2017 đến 12/2020. Tiến hành đánh giá sự thay đổi qHBsAg khi điều trị với TDF hoặc TAF. Kết quả: Nghiên cứu có 250 BN, trong đó 160 BN (64%) được điều trị với TDF và 90 BN (36%) được điều trị TAF. Thời gian điều trị trung bình của nhóm TDF là 4,1 năm và ở nhóm TAF là 2,5 năm. Giá trị qHBsAg trung bình tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu của nhóm BN điều trị TDF là 3,0 ± 0,8 (log10 UI/ml) cao hơn có ý nghĩa so với nhóm BN đang điều trị TAF (2,7 ± 0,9 với p = 0,02). Trong nhóm điều trị với TDF, giá trị qHBsAg trung bình sau 12 tuần giảm không có ý nghĩa thống kê so với thời điểm bắt (p = 0,2) nhưng giảm có ý nghĩa tại thời điểm 24 tuần so với ban đầu (p = 0,02). Ở nhóm điều trị với TAF, giá trị qHBsAg giảm không có ý nghĩa ở thời điểm sau 12 tuần (p = 0,8) và 24 tuần (p=0,4). Kết luận: Nghiên cứu cho thấy giá trị qHBsAg giảm có ý nghĩa tại thời điểm 24 tuần trong quá trình điều trị TDF, tuy nhiên giá trị qHBsAg giảm không có ý nghĩa trong quá trình điều trị TAF thời gian ngắn. Cần có nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn, đa trung tâm và thời gian theo dõi dài hơn đến đánh giá vai trò của thuốc tới sự thay đổi qHBsAg.
#qHBsAg #Viêm gan B mạn #TDF #TAF
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHUYỂN ĐỔI HUYẾT THANH CỦA TENOFOVIR DISOPROXIL FUMARATE VÀ TENOFOVIR ALAFENAMIDE Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả chuyển đổi huyết thanh của Tenofovir disoproxil fumarate (TDF) và Tenofovir alafenamide (TAF) ở bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành trên 111 bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn HBeAg dương tính điều trị ngoại trú với TDF 300mg (74 bệnh nhân) hoặc TAF 25mg (37 bệnh nhân) tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM từ tháng 1/2017 đến tháng 12/2020. Kết quả: Trong cả 2 nhóm BN điều trị TAF hoặc TDF: tỉ lệ nam giới đều chiếm ưu thế (2,7/1); độ tuổi trung bình lần lượt là 41 và 37; chỉ số ALT trung bình là 27 UI/L và 48 UI/L; tải lượng HBV DNA trung bình tại thời điểm bắt đầu điều trị lần lượt là 7,85 và 7,87 log10UI/ml. Sau 48 tuần điều trị, tỉ lệ mất HBeAg của 2 nhóm lần lượt là 13,51% và 14,86% (p=0,84); tỉ lệ đạt HBV DNA âm tính của nhóm BN điều trị TAF là 67,00% so với nhóm điều trị TDF là 58,10%, với p=0,33; tỉ lệ đạt ALT bình thường của 2 nhóm lần lượt là 54,54% và 33,33%, p=0,20. Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 48 tuần, hiệu quả điều trị tương đương nhau giữa 2 nhóm BN điều trị TAF hoặc TDF về tỉ lệ đạt tải lượng HBV DNA âm tính. Có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm điều trị TAF hoặc TDF về tỉ lệ mất HBeAg, tỉ lệ đạt ALT bình thường.
#TAF #TDF #mất HBeAg #viêm gan vi rút B mạn
DẤU ẤN HBcrAg HUYẾT THANH TRONG DIỄN BIẾN TỰ NHIÊN Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VI RÚT B MẠN TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá nồng độ HBcrAg huyết thanh và tương quan với các dấu ấn vi rút viêm gan B trong các giai đoạn tự nhiên của viêm gan vi rút B mạn. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích tiến cứu 127 bệnh nhân viêm gan vi rút B mạn chưa điều trị được theo dõi tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Nồng độ HBcrAg ở các giai đoạn nhiễm trùng mạn HBeAg dương tính (EPCI), viêm gan mạn HBeAg dương tính (EPCH), nhiễm trùng mạn HBeAg âm tính (ENCI), viêm gan mạn HBeAg âm tính (ENCH), thanh thải HBsAg (SC) lần lượt là 6,84±0,45 logU/ml; 6,7±0,59 logU/ml; 3,15±0,86 logU/ml; 4,75±1,57 logU/ml; 2,43±0,44 logU/ml. HBcrAg tương quan với HBV-DNA (r=0,785; p=0,000), mạnh nhất ở giai đoạn EPCI (r=0,988). HBcrAg tương quan với HBsAg ở mức độ trung bình (r=0,653; p=0,00); tương quan với AST, ALT trong giai đoạn ENCH với hệ số lần lượt r=0,527, p=0,001 và r=0,335, p=0,049. Ngoài ra, HBcrAg có thể phát hiện tới 75% trong nhóm thanh thải HBsAg. Kết luận: Nồng độ HBcrAg phân bố khác nhau trong suốt các giai đoạn diễn biến tự nhiên của viêm gan vi rút B mạn. Nồng độ HBcrAg có mối tương quan mạnh với tải lượng HBV-DNA trong tất cả các giai đoạn, có thể phản ánh sự nhân lên của vi rút.
#Kháng nguyên liên quan đến lõi của vi rút viêm gan B (HBcrAg) #viêm gan vi rút B mạn #diễn biến tự nhiên
Tổng số: 27   
  • 1
  • 2
  • 3